Âm thanh giõn giã từ các nhạc cụ bằng đồng vang dội khắp khuôn viên Epic Systems rộng 445 héc ta ở Verona, Wisconsin, vùng ngoại ô yên ả bên ngoài Madison. Thời điểm đó là tháng 2.2020, ngoại trừ ở Trung Quốc và vài tàu du lịch xấu số, có rất ít dấu hiệu cho thấy đại dịch COVID-19 sắp bao trùm thế giới.
Hiển nhiên, đó là chuyện thường diễn ra tại Epic: Những âm thanh đám cưới quen thuộc tràn ngập hành lang, khiến các hoạt động của 10.700 nhân viên của công ty phần mềm chăm sóc sức khỏe này đột ngột dừng lại. Ngay lúc đó, xuất hiện thông báo mới: công ty AdventHealth trụ sở tại Florida có kế hoạch triển khai hệ thống hồ sơ sức khỏe điện tử của Epic trên 37 bệnh viện của mình. Việc cài đặt toàn bộ sẽ mất hơn ba năm và tiêu tốn khoảng 650 triệu đô la Mỹ, chưa kể công tác bảo trì liên tục, sẽ tốn thêm hàng triệu đô la Mỹ hằng năm.
“Quãng thời gian như vậy sẽ hình thành mối quan hệ rất lâu dài với nhiều khách hàng,” người sáng lập và CEO của Epic, Judy Faulkner, cho biết trong một cuộc phỏng vấn hiếm hoi. Bà có ý tưởng dùng chủ đề đám cưới sau một chuyến ghé thăm Mayo Clinic hàng chục năm trước đó, nơi bà được nghe những bài hát ru vang lên mỗi khi một đứa trẻ chào đời. Có một khách hàng mới “không giống như có một đứa trẻ mới sinh ra,” bà nói. “Nghe giống như một đám cưới hơn.”
Quả vậy, các giám đốc điều hành bệnh viện thường gắn bó với Epic còn lâu hơn thời gian hôn nhân của phần lớn người Mỹ. Trung bình, khách hàng sử dụng phần mềm của Epic trong mười năm và Faulkner tuyên bố công ty chưa bao giờ để mất khách hàng nội trú, ngoại trừ trường hợp mua lại. Một phần là vì quá khó để họ bỏ đi.
Phần mềm của Epic giúp quản lý toàn bộ hành trình của bệnh nhân, bắt đầu từ lên lịch khám, đến phòng khám hoặc vào phòng phẫu thuật để bác sĩ ghi lại các trường hợp dị ứng hoặc chụp X-quang, sau đó đến văn phòng để thanh toán và các bước theo dõi về sau. Hệ thống này có tiếng độc quyền, không tương tác tốt với những hệ thống khác. Gọi là hồ sơ sức khỏe điện tử, nhưng phạm vi tiếp cận rộng hơn nhiều, gồm cả quản lý chu kỳ doanh thu, công cụ giữ chân khách hàng và phân tích dữ liệu.
Bộ sản phẩm của Epic đặc biệt phổ biến tại các trung tâm y tế lớn và bệnh viện dành cho trẻ em, chẳng hạn như Cleveland Clinic, Johns Hopkins và Boston Children’s Hospital. 564 khách hàng của công ty đại diện cho gần 2.400 bệnh viện trên toàn thế giới và 225 triệu bệnh nhân ở Hoa Kỳ, tức là khoảng 2/3 dân số cả nước.
Con số này mang lại doanh thu hơn 3,3 tỉ đô la Mỹ vào năm 2020, mặc dù Faulkner ước tính họ mất đi khoảng 500 triệu đô la Mỹ khi cung cấp miễn phí phần mềm liên quan đến đại dịch COVID-19, bao gồm các công cụ quản lý lây nhiễm và các tiện ích mở rộng cho các bệnh viện tạm thời. “Tận dụng cơ hội để kiếm tiền từ COVID-19 có vẻ không phù hợp với tôi,” bà nói.
Thành công của bà đã kéo dài qua hàng chục năm. Kể từ khi thành lập Epic năm 1979, Faulkner, 77 tuổi, đã kiên định từ chối các nhà đầu tư bên ngoài, các vụ mua lại và đầu tư ở phố Wall. Vào năm 2007, Epic vẫn chỉ là công ty có doanh thu 500 triệu đô la Mỹ. Cách đây mười năm, công ty đạt doanh thu một tỉ đô la Mỹ, và kể từ thời điểm đó tốc độ tăng trưởng hằng năm đạt 15%. Như thế nghĩa là lợi nhuận tăng cao: Dòng tiền ước tính theo chỉ số EBITDA tăng hơn 30% và công ty không có nợ.
Forbes ước tính 47% cổ phần của Faulkner trong Epic trị giá sáu tỉ đô la Mỹ, biến bà thành nữ tỉ phú tự thân giàu thứ hai ở Mỹ. Nhân viên và khoảng hơn mười người đồng sáng lập khác cùng các nhà đầu tư ban đầu sở hữu 53% còn lại.
Năm 2019, Epic chiếm 39% thị phần trong số hơn 880 ngàn giường bệnh ở Hoa Kỳ, theo ước tính của công ty CNTT y tế KLAS Research. Phần còn lại của thị trường là thị phần của công ty đại chúng Cerner, công ty Meditech có trụ sở tại Massachusetts và một số công ty khác, bao gồm Allscripts và CPSI.
Vị thế thống trị này biến Epic trở thành mục tiêu chú ý của ngành, khiến các nhà quan sát và đối thủ cạnh tranh cáo buộc công ty là một mạng lưới khép kín gây khó khăn cho việc trao đổi dữ liệu với các hệ thống khác. Faulkner cho rằng Epic không chia sẻ dữ liệu nhưng ưu tiên hàng đầu cho quyền riêng tư của bệnh nhân.
Lợi thế lớn nhất của Epic – hoạt động độc quyền – có thể trở thành trở ngại lớn nhất của Epic trong thế giới hậu COVID-19. Đại dịch đang buộc hệ thống chăm sóc sức khỏe của Hoa Kỳ phải có những thay đổi nhanh chóng. Các bác sĩ và các nhà cung cấp dịch vụ khác đã nhanh chóng áp dụng công nghệ mới trong năm qua, vì bệnh nhân đột nhiên quan tâm nhiều đến việc ở càng xa bệnh viện càng tốt.
Các nhà đầu tư mạo hiểm đã chỉ trích Epic từ trước khi đại dịch xảy ra. Xét cho cùng, tư duy về hệ thống lớn và việc cài đặt trị giá hàng trăm triệu đô la Mỹ của công ty dường như lạc hậu trong kỷ nguyên điện toán đám mây và các ứng dụng di động phổ biến, giá rẻ. Ngay trước khi tiến hành phong tỏa, chính phủ Hoa Kỳ đã hoàn thiện các quy tắc chia sẻ dữ liệu liên bang mới, cho phép bệnh nhân có quyền sở hữu đối với hồ sơ y tế điện tử của họ – điều này càng làm tăng các yếu tố bất lợi cho những dữ liệu y tế do Epic và Cerner thống trị.
John Glaser, cựu giám đốc điều hành Cerner hiện đang giảng dạy tại trường Y Harvard, cho biết: “Chúng ta đang ở ngay giữa vòng xoáy biến đổi phi thường.” Theo ông, không phải hồ sơ sức khỏe điện tử sẽ biến mất, mà những công ty khởi nghiệp nhanh nhạy và linh hoạt hơn sẽ tham gia thị trường.
Giống như sự xuất hiện của web và điện thoại thông minh đã phá vỡ thế độc quyền máy tính để bàn từ những năm 1990 của Microsoft, kỷ nguyên mới này có thể đặt ra những thách thức tương tự đối với Faulkner. Nhưng vẫn có sự khác biệt rất lớn. Phương châm “di chuyển nhanh và phá vỡ các quy tắc” của thung lũng Silicon không có hiệu quả trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Glaser nói: “Bạn không thể nói với bác sĩ rằng thất bại cũng không sao. Không ổn nếu thất bại. Thất bại nghĩa là chết.”
Faulker yêu thích giải quyết những vấn đề hóc búa kể từ khi còn là đứa trẻ lớn lên ở gần Haddonfield, New Jersey, vào những năm 1950. Hồi học lớp bảy, giáo viên dạy toán của bà viết câu đố lên bảng đen, và bà say mê toán học và logic kể từ đó. Bà theo học ngành toán tại Cao đẳng Dickinson ở Carlisle, Pennsylvania, và làm thêm tại ĐH Rochester, nơi bà biết về lập trình máy tính và Fortran (ngôn ngữ lập trình cổ do IBM phát minh).
Faulkner nói: “Tôi luôn thích sáng tạo mọi thứ từ nguyên liệu cơ bản. Và máy tính là nguyên liệu cơ bản của trí óc, xét về khía cạnh tinh thần, chứ không phải vật chất.”
Năm 1965, bà theo học bằng tiến sĩ trong chương trình khoa học máy tính sơ khai của ĐH Wisconsin. Tại Madison, bà gặp nhà tâm thần học và giáo sư Warner Slack, vào thời điểm đó đang dạy một trong những khóa học đầu tiên về máy tính trong y học. Vài năm sau, Slack giới thiệu Faulkner với John Greist, khi đó là bác sĩ trưởng khoa và hiện là giáo sư danh dự tại ĐH Wisconsin, thời điểm đó đang tìm cách nào tốt hơn để sắp xếp lịch khám cho bác sĩ. Năm 1969, Faulkner đã phát triển hệ thống trong đó người thư ký có thể đục lỗ các thẻ dữ liệu để tạo lịch trình cho cả năm trong 18 giây với chi phí năm đô la Mỹ.
Faulkner tốt nghiệp mà không hoàn thành luận án. “Tôi chưa bao giờ biết viết luận án về cái gì,” bà kể. Vào đầu những năm 1970, bà bắt đầu làm việc cho một nhóm bác sĩ tại ĐH Wisconsin, phát triển cơ sở dữ liệu để theo dõi thông tin bệnh nhân theo thời gian. Phải mất vài năm nữa (và rất nhiều lời thuyết phục từ các đồng nghiệp) trước khi Faulkner sẵn sàng thành lập công ty phần mềm của riêng mình. “Việc thành lập công ty gần giống như trò đùa,” bà nhớ lại. “Làm thế nào bạn làm được việc đó?”
Năm 1979, Faulkner và Greist vay từ bạn bè và gia đình – và đem cầm cố nhà – để góp vốn thành lập công ty Human Services Computing (sau này thành Epic), ban đầu được định giá 70 ngàn đô la Mỹ (khoảng 270 ngàn đô la Mỹ ngày nay). Faulkner có sáu hoặc bảy cộng tác viên khác, nhưng ngay từ đầu đây hoàn toàn là sân khấu độc diễn của bà: công ty là ý tưởng của bà, và bà là người chủ tịch đầu tiên. Ban đầu, công ty hoạt động ngoài giờ ở tầng hầm Madison. Faulkner đã viết những dòng mã đầu tiên trên một máy tính mini Data General Eclipse 16-bit có kích thước bằng một chiếc tủ lạnh.
Sau một vài năm, Greist bất đồng với Faulkner về hướng đi của công ty. Greist cho biết ông đã từ chức hội đồng quản trị của Epic vào năm 1983 nhưng vẫn giữ một số cổ phần. “Một phần trong số bất đồng giữa chúng tôi là khi tôi nói: ‘Trời ơi, sao chúng ta không nhận vốn đầu tư mạo hiểm để có thể gầy dựng công ty nhanh hơn?’”. “Và bà ấy nói: ‘Không, chúng ta sẽ không làm vậy, bởi vì chúng ta sẽ mất quyền kiểm soát. Hiển nhiên, đó là chính sách của bà ấy. Và bà ấy đã chứng minh rằng, bà ấy đúng, tôi đã sai,” Greist kể.
Epic tăng trưởng chậm nhưng ổn định trong hai thập niên đầu tiên, thu hút được một số khách hàng mới mỗi năm khi mở rộng các dịch vụ của mình. Vào cuối những năm 1980, công ty thêm phần mềm thanh toán; vào đầu những năm 1990, công ty áp dụng giao diện người dùng đồ họa cho các phòng khám ngoại trú. Ngoài sự tập trung ám ảnh của Faulkner vào khách hàng, Epic còn có một lợi thế khác: mã lập trình. Faulkner nói: “Đó không phải là lợi thế hoàn hảo nhưng khá đáng tin cậy.”
Năm 2004, công ty đã ký được hợp đồng lớn nhất của mình: dự án kéo dài ba năm với Kaiser Permanente, tiêu tốn của gã khổng lồ y tế bốn tỉ đô la Mỹ. Mức tiêu tốn của Epic khoảng 400 triệu đô la Mỹ. George Halvorson, giám đốc điều hành của Kaiser Permanente cho biết: “Epic mang đến cảm giác an toàn rằng nếu bạn chọn họ, họ sẽ thực sự triển khai dịch vụ và thực hiện đúng lịch trình. Điều đó vô cùng quan trọng.”
Một năm sau khi Epic ký hợp đồng với Kaiser, công ty chuyển đến địa điểm mới, nơi thường được so sánh với một Disney World dành cho người lớn. Trụ sở chính có một trong những khán phòng ngầm lớn nhất thế giới, Đại lễ đường lấy cảm hứng từ trường Hogwarts, thang máy đến Địa ngục, một ngôi nhà trên cây khổng lồ và vô số các tòa nhà cùng tác phẩm điêu khắc kỳ lạ ảo diệu khác giữa những ngọn đồi nhấp nhô ở phía nam Wisconsin.
Tại cuộc họp khách hàng thường niên của Epic, Faulkner nổi tiếng với việc mặc trang phục giống như các nhân vật trong phim Alice in Wonderland như Lucille Ball và Mad Hatter. Những điều này có vẻ hơi mâu thuẫn với hình tượng kẻ mọt sách luôn né tránh ánh mắt của công chúng mà bà tự nhận. “Người hướng nội có thể hành động như người hướng ngoại,” bà giải thích. “Nhưng mọi người hay nói là người hướng ngoại không thể hành động như người hướng nội.”
Công ty thu được nhiều lợi nhuận. Mỗi năm, Epic thuê khoảng 2.000 nhân viên, họ đều được yêu cầu phải vượt qua một loạt bài kiểm tra năng khiếu đo lường những thứ như kỹ năng lập trình và logic. Phương châm của công ty là “Làm điều tốt. Cảm thấy vui. Kiếm ra tiền,” và văn hóa công ty có nhịp độ nhanh và siêu cạnh tranh.
Các nhân viên cũ nói về việc kiệt sức trong một môi trường đầy những người làm việc quá mức. Ngay cả nhân viên hiện tại của Epic cũng cảm thấy bị thúc đẩy quá mức: họ đã biểu tình khi công ty cố gắng buộc tất cả nhân viên quay trở lại làm việc tại văn phòng công ty giữa đại dịch vào tháng tám năm ngoái. Sau khi một số câu chuyện rủi ro được báo chí địa phương đưa tin, công ty đã thay đổi ý định.
Công ty AdventHealth ở Florida, đã ký hợp đồng trị giá 650 triệu đô la Mỹ trong giai đoạn tiền COVID-19, sẽ là công trình lớn nhất được xây dựng và cài đặt từ xa hoàn toàn của Epic. Để vượt mặt Cerner và Athenahealth, CEO Terry Shaw đã quyết định rằng tốt hơn là 5,5 triệu bệnh nhân của ông nên chuyển sang sử dụng Epic thay vì cố gắng kết hợp các hồ sơ sức khỏe điện tử hiện tại của ba công ty này với nhau.
Ông nói, mặc dù trước mắt rất tốn kém, nhưng động thái này sẽ làm giảm chi phí hoạt động trong dài hạn. Hệ thống của Epic “có các kết nối với bên ngoài thông qua các mạng lưới tuyệt vời,” ông nói thêm. “Bạn có thể thực sự giúp một người nhận được sự chăm sóc cần thiết, bất cứ nơi nào họ cần.”
Tuy nhiên, cho đến nay các kết nối của Epic có tiếng là chỉ mới ở mức tiếp cận – và dường như kết quả có được phần lớn là nhờ thiết kế của hồ sơ. Chẳng hạn, một bệnh viện có thể dễ dàng chia sẻ hồ sơ của bệnh nhân ung thư với một phòng khám hóa trị bên ngoài – miễn là cả hai nơi đều chạy phần mềm của Epic. Nếu phòng khám hóa trị đang sử dụng phần mềm của một đối thủ cạnh tranh lớn, thì vẫn có thể truy cập được vào hồ sơ của bệnh nhân. Nhưng nếu phòng khám muốn thử nghiệm với một ứng dụng của bên thứ ba rẻ hơn, họ có thể khá vất vả. Epic chỉ kết hợp với các ứng dụng chăm sóc sức khỏe trong từng trường hợp cụ thể.
Những người yêu thích công nghệ gọi đây là “khả năng tương tác” – về cơ bản, khiến các hệ thống phần mềm khác nhau trao đổi với nhau – và đây là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong cuộc tranh luận về các quy tắc mới của liên bang vào tháng 1.2020. Chia sẻ hồ sơ y tế với bên thứ ba – ngay cả khi bệnh nhân yêu cầu – có thể gây ra “nguy cơ nghiêm trọng đối với quyền riêng tư của bệnh nhân,” Epic cho biết trong một tuyên bố vào thời điểm đó.
Gần như mọi công ty công nghệ khác – bao gồm Cerner, Apple, Microsoft và Google – đều không đồng ý, cho rằng lập trường của Epic là không tốt cho bệnh nhân và cản trở sự đổi mới. Ngay cả các quan chức liên bang cũng tìm hiểu kỹ càng về doanh nghiệp của Faulkner. “Những nỗ lực không ngừng của một số tổ chức tư nhân nhằm sử dụng quyền riêng tư – vốn là yếu tố vô cùng quan trọng – như cái cớ để giữ rịt dữ liệu bệnh nhân làm tin, là điều xấu hổ đối với ngành công nghiệp,” Seema Verma, cựu giám đốc trung tâm Medicare và Medicaid, phát biểu tại một hội nghị.
Sau cùng, FBI đã cấm việc Epic hoặc bất kỳ công ty nào khác giữ bí mật các dữ liệu chăm sóc sức khỏe.
Các ông lớn Big Tech đã để ý đến dữ liệu chăm sóc sức khỏe trong hơn mười năm qua. Các công ty như Google đã cố gắng và thất bại trong việc tung ra hồ sơ sức khỏe cá nhân dựa trên Internet vào cuối những năm 2000. Tương tự, trang web Microsoft HealthVault đã bị khai tử. Các bác sĩ chỉ trích nỗ lực đo nhịp tim bằng đồng hồ của Apple. Và Amazon đã thất bại với Haven, liên doanh với Berkshire Hathaway và JPMorgan Chase, được cho là sẽ giảm đáng kể chi phí chăm sóc sức khỏe cho người sử dụng lao động.
Các doanh nghiệp nhỏ có khả năng làm được những điều mà các doanh nghiệp lớn thất bại. Với các hướng dẫn liên bang mới được ban hành trong vài năm tới, nhiều nhà đầu tư mạo hiểm đang đặt cược lớn rằng một trong số nhiều công ty nhỏ mới thành lập có thể xâm nhập hào lũy của Epic.
Theo CB Insights, đầu tư mạo hiểm vào lĩnh vực công nghệ thông tin phục vụ ngành y tế đạt mức cao nhất mọi thời đại vào năm 2020, đạt hơn 3,6 tỉ đô la Mỹ, tăng 51% so với năm 2019. Missy Krasner, cựu giám đốc điều hành của Google Health và Amazon, người gần đây đã gia nhập công ty Redesign Health có trụ sở tại New York, cho biết: “Chưa bao giờ trong lịch sử chăm sóc sức khỏe ở Hoa Kỳ, tôi được chứng kiến sự bùng nổ của loạt hoạt động đầu tư vào lĩnh vực y tế kỹ thuật số nhiều đến thế. COVID-19 thực sự làm cho khả năng tương tác trở nên thu hút trở lại.”
Faulkner nói, bà không lo lắng về việc tất cả những doanh nghiệp ở thung lũng Silicon bước vào lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. “Tôi nghĩ một vài công ty trong số đó sẽ làm rất tốt. Và phần lớn trong số họ sẽ không thành công,” bà chia sẻ. “Chúng tôi không giống nhiều hệ thống y tế có nghĩa vụ phải đáp ứng yêu cầu của bệnh nhân rằng ‘Gửi dữ liệu của tôi đến đây’ hoặc ‘Gửi dữ liệu của tôi đến đó.’”
Các quy tắc liên bang mới liên quan đến hồ sơ cá nhân của bệnh nhân, nhưng ngành công nghiệp này đang nhanh chóng hướng tới việc tổng hợp dữ liệu hàng loạt. Đó là không gian mà nhiều doanh nghiệp, bao gồm cả Epic, muốn tham gia.
Những bộ dữ liệu y tế lớn và ẩn danh này có thể được sử dụng cho mọi thứ, từ nghiên cứu thuốc đến khám phá các xu hướng y tế nội địa mới nổi và có thể vô cùng đáng giá. Vào năm 2019, Epic đã công bố sáng kiến dữ liệu lớn có tên là Cosmos, nhằm khai thác hơn 100 triệu hồ sơ bệnh nhân được xác định danh tính.
Mặc dù chỉ còn 28 tháng nữa là đến sinh nhật lần thứ 80, Faulkner cho biết bà không có kế hoạch nghỉ hưu. Bà không chỉ định người kế thừa, và không ai trong số ba người con của bà làm việc tại Epic. Faulkner chỉ bảo đảm tương lai của Epic trong điều kiện công ty sẽ không bao giờ được niêm yết.
Bà đã chia cổ phiếu của mình thành các cổ phiếu có quyền biểu quyết không thể bán và chuyển sang quỹ tín thác do các thành viên trong gia đình và nhân viên kiểm soát. Các cổ phiếu không biểu quyết của bà đang được dành cho một quỹ mà bà đã thành lập cùng với chồng có tên là Roots & Wings, tài trợ cho các nghiên cứu về phát triển trí não trẻ em và cải cách tư pháp hình sự (bà đã ký cam kết Giving Pledge vào năm 2015).
“Tôi thích những gì tôi làm và tôi muốn làm điều đó, miễn là tôi làm việc hiệu quả và có thể mang lại giá trị trong công việc,” bà nói. Bà lo lắng về những gì sẽ xảy ra với mọi người khi họ nghỉ hưu, khi đọc thấy thông tin rằng một người bình thường sẽ chết sau hai năm kể từ khi về hưu. “Họ dường như đánh mất quyền được tự hỏi ‘Tại sao tôi phải thức dậy vào buổi sáng? Ngày hôm nay của tôi sẽ như thế nào?’ Còn tôi thì thức dậy và nghĩ ‘Làm thế nào để hoàn thành mọi công việc trong ngày của mình?’”
Minh Anh/Theo Forbes
Link nội dung: https://dulichnghiduong.vn/cach-nu-ti-phu-judy-faulkner-thong-linh-kinh-doanh-ho-so-y-te-dien-tu-tai-my-dut-tui-hon-6-ty-do-a23593.html